Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam
17/07/2019
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP RA NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM
ầu tư trực tiếp ra nước
ngoài là đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thế giới hiện nay. Sự vận động của nó
có tác dụng to lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển và tính bền vững
của kinh tế toàn cầu. Đối với từng quốc gia, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài có
ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ tạo ra “chiếc bánh thứ hai” cho nền kinh tế
mà còn giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh tránh các rào cản thuế
quan và phi thuế quan, mở rộng thị trường, nâng cao vị thế của doanh nghiệp
trên thị trường… Bài nghiên cứu đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng đầu
tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài; qua đó, chỉ ra các cơ hội và thách thức
mà doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt cũng như đề xuất một số giải pháp nhằm
giúp các doanh nghiệp Việt Nam tăng cường hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài.
Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là đặc
trưng cơ bản của nền kinh tế thế giới hiện nay. Các nước đang phát triển và chậm
phát triển cũng hoàn toàn có khả năng và có nhiều cơ hội để đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài, thậm chí đầu tư vào các nước phát triển, nếu các nhà đầu tư, các
doanh nghiệp chủ động, sáng tạo và biết đánh giá đúng cơ hội. Hơn thế nữa, đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài còn tạo nhiều điều kiện để các doanh nghiệp tự hoàn
thiện mình, góp phần phát
triển kinh tế và hoàn thiện các chính sách kinh tế của đất nước. Nhận thức tầm
quan trọng của đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trong thời gian quan Đảng và Nhà
nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm khai thác lợi ích của
hoạt động lưu chuyển loại vốn đầu tư quốc tế này.
1. Sự cần
thiết phải đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước đang phát
triển
Đầu tư ra nước ngoài nói chung và
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài nói riêng giúp cho doanh nghiệp của
các nước đang phát triển làm quen và thích nghi dần với thị trường
khu vực và thế giới.
Trong thời đại bùng nổ khoa học và
CNTT thì đầu tư trực tiếp ra nước ngoài là một trong những phương
pháp ít tốn kém nhất mà các doanh nghiệp các nước đang phát triển
có thể áp dụng để tiếp cận với KHCN cao, đồng thời học hỏi những
ứng dụng trong CNTT, một trong những lĩnh vực là chìa khóa then chốt
cho sự phát triển và thành công.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài còn giúp các doanh nghiệp san sẻ rủi ro trong đầu tư và trong
kinh doanh.
Hoạt động đầu tư ra nước ngoài còn
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện đổi mới cơ cấu sản
xuất doanh nghiệp, tạo điều kiện áp dụng các công nghệ sản xuất
mới, tăng cường tính năng động và khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp.
Hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài còn giúp các doanh nghiệp phát huy được thế mạnh, điểm mạnh
của các sản phẩm doanh nghiệp, đặc biệt là những sản phẩm truyền
thống, sản phẩm riêng có của quốc gia.
2. Thực trạng đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
Những năm gần đây, đầu tư trực tiếp của
Việt Nam ra nước ngoài có xu
hướng ngày càng tăng. Đây là hoạt động có tiềm năng, không chỉ giúp cho các doanh
nghiệp mở rộng thị trường đóng góp cho sự phát triển đất nước, mà còn góp phần
nâng cao vị thế của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tính đến cuối năm 2015 ,Việt Nam đã đầu tư ở 63 quốc
gia và vùng lãnh thổ với 891 dự án và tổng vốn đăng ký đạt gần 20 tỷ USD. Trong
đó, Lào là quốc gia có nhiều
dự án đầu tư của Việt Nam nhất với 249 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 7,4 tỷ USD,
Campuchia đứng thứ 2 với 161 dự án tổng vốn đăng ký đạt 3,4 tỷ USD, Singapore
có 55 dự án, Myanmar 22 dự án và Liên bang Nga là 19 dự án.
Nếu xét về lĩnh vực đầu tư, thì trong
giai đoạn từ 1998-2013, lĩnh vực công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất với
9,98 tỷ USD; sau đó là dịch vụ với 3,91 tỷ USD còn nông, lâm nghiệp - thủy sản chỉ chiếm
2,74 tỷ USD.
Các tập đoàn, công ty đầu tư ra nước
ngoài của Viêt Nam bao gồm:
- Tổng công ty Sông Đà, Công ty Cổ phần
Điện Việt Lào với dự án thủy điện Xekaman 1 nằm trong khuôn khổ hợp tác giữa
hai Chính phủ Lào và Việt
Nam về hợp tác phát triển năng lượng điện và mỏ đã xây dựng xong và
bàn giao khu tái định cư Souksavang-Dakbou tại huyện Sansay, tỉnh Attapue, Nam
Lào vào ngày 16/12/2015.
- Tập đoàn TH và Matxcơva (Liên bang
Nga) với thỏa thuận hợp tác để triển khai Dự án Chăn nuôi bò sữa và chế biến
sữa tập trung quy mô công nghiệp công nghệ cao, vốn đầu tư 2,7 tỷ USD.
- Tập đoàn viễn thông quân đội
Viettel: với các dự án phát triển mạng viễn thông ở Campuchia, Lào,
Mozambique, Haiiti, Tanzania... và tham gia đấu thầu vào thị trường viễn thông
Myanmar. Công ty cung cấp dịch vụ điện thoại di động Bitel, chi nhánh Tập đoàn
viễn thông quân đội Viettel của Việt Nam tại Peru, đã tuyên bố đầu tư thêm 250
triệu USD nhằm đưa số lượng thuê bao lên mức 2,5 triệu vào cuối tháng 10/2015.
- Công ty sữa Vinamilk chuyên bán buôn
nguyên liệu nông nghiệp cũng như bán buôn bán lẻ sữa, các chế phẩm từ sữa. Dự
án đã và đang được triển khai tại Ba Lan với tổng mức đầu tư 3 triệu USD. Công
ty này cũng đang mở rộng quy mô đầu tư bằng cách đẩy mạnh mua bán và
sát nhập (M&A) dồn vốn cho các dự án đầu tư ra nước ngoài để gia tăng
nhanh năng lực cung cấp.
-Tập đoàn công nghiệp cao su Việt
Nam, công ty cao su Đắk Lắk với dự án trồng cây cao su ở Lào.
- Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai cũng
với dự án trồng cây cao su và sản xuất mía đường ở Lào.
- Tập đoàn Hóa chất Việt Nam với dự án
khai thác và chế biến muối mỏ Kali tại tỉnh Khammuon của Lào.
- Tập đoàn FPT với dự án triển khai hạ
tầng và cung cấp dịch vụ viễn thông NFS(I) - Network Facilities
Service-Individual đã được Bộ Truyền
thông và Công nghệ Thông tin Myanmar cấp giấy phép và trở thành doanh
nghiệp nước ngoài lần đầu tiên được phép cung cấp dịch vụ viễn thông.
- Công ty Phần mềm FPT (FPT Software)
đã mở công ty con FPT Software Philippines đặt tại khu Công nghệ thông tin
Cebu, Philippines. Trong chiến lược phát triển dài hạn, doanh nghiệp này kỳ vọng
FPT Software Philippines sẽ trở thành một trung phát triển dịch vụ có quy mô
nhân lực và năng lực công nghệ tương đương các trung tâm lớn khác tại Việt Nam.
- Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai với sự mở
rộng đầu tư vào dự án phức hợp tổ hợp khách sạn văn phòng nhà ở cao cấp ở
Myanmar với mức đầu tư 440 triệu USD.
3. Cơ hội và
thách thức của doanh nghiệp Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài
* Cơ hội
Thứ
nhất, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội
lựa chọn địa chỉ đầu tư thích hợp, từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn. Trong bối cảnh xu hướng tự do hóa đầu tư đang diễn ra mạnh mẽ
như hiện nay, các quốc gia trên thế giới hầu hết đều thực thi những
biện pháp khuyến khích nhằm kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài. Điều
kiện đó mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn bằng việc đầu tư vào những nơi có khả năng đem lại tỷ
suất lợi nhuận cao. Địa chỉ đầu tư không còn bị bó hẹp trong khuôn
khổ địa lý quốc gia, mà được mở rộng ra các nước trong khu vực cũng
như toàn thế giới. Vấn đề đặt ra chỉ là năng lực khai thác cơ hội
của các doanh nghiệp mà thôi.
Thứ
hai, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ
hội mở rộng thị trường tiêu thụ. Hoạt động thương mại là một trong
những bước cơ bản đầu tiên trong lộ trình xâm nhập thị trường nước ngoài,
nhưng để thực sự cắm rễ sâu bền tại thị trường các nước trên thế
giới, doanh nghiệp nhất thiết phải thành lập các chi nhánh ở nước
ngoài thông qua các hình thức như doanh nghiệp liên doanh hay doanh
nghiệp 100% vốn. Đây chính là kinh nghiệm thành công và lớn mạnh của
các công ty xuyên quốc gia trên thế giới.
Thứ
ba, doanh nghiệp Viêt Nam có điều kiện khai thác
các nguồn lực sản xuất của nước ngoài từ đó phát huy được lợi thế
so sánh của mình. Lý thuyết cũng như thực tiễn cho thấy rằng mỗi
quốc gia đều có những nguồn lực sản xuất nhất định và tổng nguồn
lực là hữu hạn. Đây chính là một nguyên nhân cơ bản khiến doanh
nghiệp của quốc gia này tìm kiếm cơ hội đầu tư ở quốc gia khác nhằm
khai thác những nguồn lực của đất nước đó để phát triển. Đồng
thời, cùng với quá trình khai thác là việc phát huy thế mạnh của
mỗi doanh nghiệp. Những lợi thế sẽ không đem lại lợi nhuận một khi
chúng không có điều kiện được triển khai trong thực tiễn
Thứ
tư, doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện tiếp xúc
trực tiếp với thị trường quốc tế về vốn, máy móc thiết bị KHCN,
từ đó có điều kiện tiếp thu công nghệ mới hiện đại, có điều kiện
đổi mới cơ cấu sản xuất của doanh nghiệp.
Thứ
năm, các doanh nghiệp Việt Nam có điều
kiện tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, nâng cao trình độ tổ
chức, quản lý sản xuất, nâng cao hiểu biết về luật pháp và ý thức
chấp hành luật pháp, nâng cao khả năng cạnh tranh công bằng trên trường
quốc tế và cả ở trong nước.
* Thách thức
Một
là, tiềm lực tài chính của đại đa
số các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu.
Hai
là, các doanh nghiệp Việt Nam còn
thiếu kinh nghiệm đầu tư ra nước ngoài.
Ba
là, năng lực cạnh tranh tổng hợp của
các doanh nghiệp Việt Nam còn thấp, khiến khả năng đầu tư ra nước
ngoài chưa cao.
4. Đánh giá về tình hình hoạt động đầu
tư trực tiếp ra nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam
* Những kết quả đạt được
Cùng với việc tăng cường thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, xu hướng đầu tư ra nước ngoài của các doanh
nghiệp Việt Nam đang được mở rộng. Đây là một hướng đi chứa đựng nhiều rủi ro
nhưng nó là tất yếu nếu doanh nghiệp Việt Nam muốn vươn ra thị trường thế giới.
Tại Việt Nam, có không ít các doanh nghiệp đã gặt hái được thành công. Những
thành quả đạt được thể hiện ở các mặt: đối với hoạt động quản lí vĩ mô của nhà
nước và đối với doanh nghiệp Việt Nam.
Đối với hoạt động quản lí vĩ mô của nhà nước:
Thứ nhất, hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài giúp Việt Nam sử dụng có hiệu quả nguồn vốn “dư thừa” trong nước.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
góp phần sử dụng, quản lí tốt hơn các nguồn lực trong nước.
Thứ ba, đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài giúp Việt Nam thể hiện được sức mạnh kinh tế đồng thời
nâng cao uy tín của mình trên trường quốc tế.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài
góp phần làm tăng thu ngân sách nhà nước.
Đối với doanh nghiệp Việt Nam:
Thứ nhất, hoạt động
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài giúp doanh nghiệp Việt Nam thu được lợi
nhuận cao hơn đầu tư trong nước.
Thứ hai, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
giúp doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, hoạt động đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài giúp doanh nghiệp kéo dài vòng đời sản phẩm.
Thứ tư, đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài giúp doanh nghiệp Việt Nam tránh được hàng rào bảo hộ thương
mại của nước nhận đầu tư.
Thứ năm, hoạt động đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam đổi mới cơ cấu sản
xuất và hạn chế hao mòn vô hình cho thiết bị máy móc.
Thứ sáu, các doanh nghiệp Việt Nam
có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm của
các nước phát triển khi thực hiện đầu tư trực tiếp vào các nước này
(ví dụ như Nga, Mỹ, Nhật Bản, Anh, Pháp,…)
Đối với vấn đề xã hội:
Thứ nhất, hoạt động đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài ở Việt Nam không chỉ có tác dụng lớn trong việc
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà bên cạnh đó nó còn giúp cho dân trí
phát triển, mở mang tầm hiểu biết ra thế giới bên ngoài.
Thứ hai, hoạt động đầu tư trực tiếp
ra nước ngoài của Việt Nam còn giúp Việt Nam có thêm nhiều bạn bè
trên thế giới, mở rộng được mối quan hệ giao lưu kinh tế-xã hội với
các nước trên thế giới, cùng với các quốc gia trên thế giới xây dựng
một xã hội văn minh, hiện đại vì nền hòa bình và sự phát triển
của nhân loại.
* Những hạn chế và nguyên nhân
cơ bản
Những hạn chế
Mặc dù đã đạt được những kết quả khả
quan, đáng khích lệ nhưng hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp
Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, đó là:
- Năng lực cạnh tranh yếu.
-
Các doanh nghiệp Việt
Nam đầu tư ra nước ngoài thiếu tính liên kết với nhau.
- Triển khai dự án chậm.
- Hiệu quả vốn đầu tư chưa cao.
Nguyên nhân
- Cơ chế chính sách của Việt Nam
trong lĩnh vực này còn thiếu, chưa tạo động lực để phát triển các họat
động đầu tư: Các chính sách, văn bản pháp luật của Việt Nam còn
thiếu, chưa đồng bộ thậm chí còn chồng chéo lên nhau gây nhiều bất
cập.
- Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam còn hạn chế thể hiện trên tất cả các mặt tài
chính, khoa học công nghệ, trình độ quản lý.
- Sự hỗ trợ về đầu tư từ phía
nhà nước đối với các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài còn mờ nhạt,
thiếu đồng bộ từ chủ trương chính sách đến các biện pháp cụ thể.
- Nền kinh tế Việt Nam đang ở trình
độ phát triển thấp.
Các ngành kinh tế còn đang trong giai đoạn phát triển và hoàn thiện
nên không tránh hỏi những khiếm khuyết.
- Nước nhận đầu
tư hầu hết là các nước đang phát triển, trình độ lao động còn hạn
chế nên khi đầu tư vào những nước này phải tiến hành đào tạo lại
lao động. Điều này đòi hỏi kinh phí khá lớn, làm tăng chi
phí của doanh nghiệp trong khi quy mô vốn đầu tư còn nhỏ sẽ gây nên sự
e ngại khi đầu tư vào những nước này. Mặt khác, đối với những nước
nhận đầu tư là những nước phát triển thì do doanh nghiệp Việt Nam
vẫn chưa tuyển chọn đủ lao động từ trong nước sang mà vẫn phải tuyển
dụng lao động ngay tại nước sở tại, điều này sẽ kéo theo vấn đề
tiền thuê lao động sẽ cao hơn nhiều.
5. Một số giải pháp cơ bản thúc đẩy
doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực tiếp ra nước ngoài
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý,
chính sách về đầu tư ra nước ngoài.
+ Đơn giản hóa thủ tục đăng kí và cấp giấy phép đầu
tư ra nước ngoài, tiến tới bỏ hình thức cấp phép, chuyển sang hình
thức đăng kí đầu tư cho thuận tiện mà vẫn không giảm tính chất quản
lý của Nhà nước.
+ Rút ngắn thời hạn cấp giấy phép
đầu tư ra nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam xuống tối đa là 15
ngày kể từ khi nhận hồ sơ hợp lệ.
+ Xây dựng danh mục các dự án
đặc biệt khuyến khích đầu tư ra nước ngoài với những hình thức ưu
đãi phù hợp về tín dụng mua ngoại tệ, thuế…
+ Đưa hoạt động đầu tư ra nước
ngoài của các doanh nghiệp FDI vào thành các quy định của Nghị định.
+ Cần phân cấp lại thẩm quyền cấp
giấy phép đầu tư ra nước ngoài.
+ Những quy định trong Nghị định
cần rõ ràng, minh bạch và phải lượng hóa được, không nên đưa ra quá
nhiều quy định mang tính định tính gây phiền phức khi xét duyệt giấy
phép đầu tư và tạo cơ hội cho những tiêu cực xã hội nảy sinh phát
triển.
+ Mở rộng diện đầu tư, cho phép
các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài vào những lĩnh vực như
ngân hàng, bảo hiểm, giáo dục, y tế, thậm chí thực hiện đầu tư ra
nước ngoài dưới hình thức cho thuê, tín dụng quốc tế, miễn là các
doanh nghiệp này có luận chứng kinh tế bảo đảm khả năng sinh lời của
dự án.
+ Chính phủ cần yêu cầu các Bộ,
ngành có liên quan sớm ban hành các văn bản còn thiếu liên quan đến
hoạt động của doanh nghiệp ở nước ngoài tạo hành lang pháp lý đồng
bộ điều chỉnh hoạt động kinh tế này.
+ Các chính sách,
chế độ và cơ chế điều chỉnh đối với hoạt động của các doanh nghiệp
Việt Nam khi đầu tư ra nước ngoài cũng cần được quy định rõ ràng,
ngắn gọn,nhưng phản ánh được các chỉ tiêu cần thiết như: số vốn
thực hiện, tình hình sản xuất kinh doanh, thu hút lao động, xuất
khẩu, lợi nhuận… Đồng thời, cần có các chế tài đủ mạnh đối với
các doanh nghiệp không báo cáo hoặc báo cáo không đầy đủ, không kịp
thời tình hình hoạt động ở nước ngoài.
Thứ hai, ban hành các chính
sách ưu đãi khuyến khích hoạt động đầu tư ra nước ngoài.
- Chính sách thuế:
Thuế là công cụ tài chính số 1 có
tác động đến khả năng tạo ra lợi nhuận của dự án đầu tư, do
thuế ảnh hưởng trực tiếp đến thu
nhập, đến khả năng sinh lời của đồng vốn và đến khả năng tái đầu tư
của các doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải:
+ Áp dụng chính sách thuế ưu đãi
cho các dự án thuộc Danh mục các lĩnh vực khuyến khích đầu tư ra
nước ngoài.
+ Cho phép các dự án mà doanh
nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài được hưởng các ưu đãi thuế đầu
tư ít nhất là ngang bằng với doanh nghiệp trong nước đang được hưởng
theo luật, nếu như lĩnh vực hoạt động của dự án đầu tư ra nước
ngoài hay giống hay bổ sung cho hoạt động của doanh nghiệp ở trong
nước.
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư ra
nước ngoài được Nhà nước hoàn lại thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp
đối với khoản thu của dự án đầu tư ở nước ngoài, nếu doanh nghiệp
sử dụng số lợi nhuận thu được để tái đầu tư ở nước ngoài.
+ Mẫu vật, tài liệu, kĩ thuật… nhập khẩu nhằm mục
đích nghiên cứu, phân tích,phục vụ cho việc thực hiện dự án đầu tư
ở nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu và là đối tượng không chịu
thuế GTGT.
-
Chính sách ngoại
hối:
+ Thực hiện nhất quán chủ trương
khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. Đặc biệt
đối với những dự án nằm trong Danh mục đặc biệt khuyến khích và
khuyến khích đầu tư ở nước ngoài bằng việc tạo điều kiện dễ dàng
cho các doanh nghiệp mua ngoại tệ, chuyển ngoại tệ có liên quan đến
hoạt động đầu tư ra và vào Việt Nam.
+ Cho phép các doanh nghiệp Việt Nam
có nguồn thu ngoại tệ ổn định và tương đối lớn được mở tài khoản
ngoại tệ ở nước ngoài để thuận tiện cho việc trang trải các nhu cầu
về ngoại tệ của doanh nghiệp.
+ Tiếp tục nới lỏng, tiến tới tự
do hóa trong quản lý ngoại hối.
+ Phát triển thị trường ngoại hối
đáp ứng nhu cầu ngoại tệ, đồng thời tạo cơ chế hạn chế rủi ro tỷ
giá hối đoái cho các doanh nghiệp.
Thứ ba, mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực FDI.
+ Tham gia kí kết các hiệp định
đầu tư đa phương khu vực và song phương.
+ Tích cực đàm
phán ký kết các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và nâng cao hiệu
quả triển khai của các hiệp định đã ký để hỗ trợ các doanh nghiệp
đầu tư ra nước ngoài.
Thứ tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp.
+ Nâng cao năng lực công nghệ của
doanh nghiệp.
+ Cải thiện cơ chế đầu tư tài chính.
+ Xây dựng, củng cố các tổng công
ty theo hướng thành lập các tập đoàn kinh tế.
+ Tăng cường hoạt động xúc tiến
đầu tư ra nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam, trước hết tập
trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế so sánh.
Kết luận
Hoạt động đầu tư quốc tế ngày
càng phát triển mạnh mẽ trong những thập kỷ trở lại đây, và thực
sự trở thành một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế hiện đại. Tham gia
vào hoạt động đầu tư quốc tế chủ yếu là các nước phát triển với
lợi thế về tiềm lực tài chính mạnh, năng lực khoa học công nghệ
hiện đại, cộng với trình độ quản lý kinh doanh tiên tiến và có hiệu
quả. Tuy nhiên, hiện nay trong xu thế phát triển của dòng luân chuyển
vốn đầu tư quốc tế, nhiều nước đang phát triển với tư cách là nước
chủ đầu tư. Sự tham gia của các nước đang phát triển làm đa dạng
phong phú thêm hoạt động đầu tư quốc tế - một lĩnh vực gần
như độc quyền của các nước phát triển trong một thời gian dài trước
đây.
Việt Nam cũng đã tiến hành hoạt động đầu
tư ra nước ngoài từ rất sớm và thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên,
để tăng cường hoạt động này trong thời gian tới, ngoài việc phải thực hiện đồng
bộ các giải pháp trên, cần chú trọng tới việc đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô,
hình thành và phát triển đồng bộ các hệ thống trên thị trường, cũng như hoàn
thiện hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ và tăng cường hợp
tác quốc tế trên mọi lĩnh vực.
Tài
liệu tham khảo
1. Đỗ Đức Bình (2012), Giáo trình Đầu tư quốc tế, Trường Đại học
KTQD, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Cục Đầu tư
nước ngoài (2013), Tình hình đầu tư của
Việt Nam ra nước ngoài lũy kế đến QI năm 2013, Hà Nội.
3. Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Cục Đầu tư
nước ngoài (2013), Báo cáo tình hình đầu
tư ra nước ngoài Quý I 2013, 2012, 2011, Hà Nội.
4. Chu Văn Cấp (2003), Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước
ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2009), “Kinh
nghiệm đầu tư ra nước ngoài của các nước đông Nam Á và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Phát triển kinh tế, số (220), tr
33-38.
6. Nguyễn Hữu Huy Nhựt (2010), Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Luận án Tiến sĩ Kinh tế,
Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
7. Đinh Trọng Thịnh (2006), Thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam đầu tư trực
tiếp ra nước ngoài, Nxb. Học viện Tài chính, Hà Nội.
8. Lưu Đạt Thuyết (2003), Toàn cầu hóa
kinh tế và chính sách hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. Tham khảo từ các website:
www.mpi.gov.vn
www.moit.gov.vn
www.mof.gov.vn
PHÙNG ANH VŨ / Giám đốc Công ty TNHH Tiếp vận AVC Việt Nam